Tổng công ty truyền tải điện quốc gia & Ứng dụng Công nghệ thông tin trong giải quyết công việc, cải cách thủ tục hành chính

Sắt son "người lính" truyền tải điện

Ðường dây truyền tải điện chạy khắp dải đất nước hình chữ S, từ miền biển, đồng bằng, vùng núi thâm sơn, vùng rừng già…, từ Ðông Trường Sơn sang Tây Trường Sơn. Sự đa dạng về địa lý, khoảng cách, sự khắc nghiệt, thậm chí đối nghịch về thời tiết ngay trong cùng một thời điểm, càng khiến cho công việc của người làm truyền tải thêm phần thử thách… Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, nhiệm vụ quan trọng nhất vẫn là giữ cho dòng điện thông suốt. Trụ được với nghề, họ cần có phẩm chất, kỷ luật của người lính.

Công nhân truyền tải trong ca trực đi kiểm tra tuyến đường dây ở đèo Hải Vân.

Mệnh lệnh từ tâm

Có thể nói, ngay từ những năm đầu đường dây 500 kV bắc - nam đi vào vận hành, chống lũ đã trở thành một thứ phản xạ có điều kiện trong mỗi người làm truyền tải điện. Ấy thế nhưng, năm 2020, bão lũ lịch sử dồn dập đổ vào miền trung trong tháng 10, tháng 11 thật sự là thử thách khốc liệt.

Trước mùa mưa bão, Công ty Truyền tải điện 2 đã triển khai đồng bộ các biện pháp, trong đó chủ động phương châm "4 tại chỗ"; chủ động ký kết phương án phối hợp phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn với các đơn vị liên quan như các xã có tuyến đường dây đi qua, các công ty có phương tiện cơ giới, các đơn vị truyền tải điện lân cận… Ðồng thời, phối hợp lực lượng hợp đồng bảo vệ đường dây trong công tác thông tin trên tuyến; thường xuyên giữ mối liên hệ với Ban chỉ huy Phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn các tỉnh, thành phố và các huyện, thị xã, thành phố để nắm bắt thông tin, tranh thủ sự giúp đỡ về phương tiện, con người khi có tình huống cần huy động. Nhưng không ai có thể ngờ được, năm nay lượng mưa trút xuống còn vượt ngưỡng cơn đại hồng thủy ở miền trung năm 1999. Gương mặt còn hằn nét hốc hác, Giám đốc Công ty Truyền tải điện 2 Trần Thanh Phong nhớ lại, nghe mưa đổ, lòng người như có lửa đốt, lưới điện 220 kV ngập chìm trong mênh mang nước bạc. Lưới điện 500 kV vững vàng qua hàng chục năm, bỗng trở nên mong manh trước lũ ống, lũ quét làm lở núi, toác đồi. Nếu trong điều kiện bão lũ, lưới điện phân phối được ngắt để bảo đảm an toàn cho người dân, thì với lưới điện truyền tải, sẽ phải bằng mọi giá giữ được sự thông suốt. Không chỉ bảo đảm truyền tải điện vào nam ra bắc, đường dây 500 kV còn mang sứ mệnh quan trọng, đó là hệ thống cáp quang chuyển tải thông tin xuyên quốc gia.

Vậy nên, ký ức những ngày bão lũ lưu lại trong anh em Truyền tải điện Quảng Bình là những đêm trực thức trắng, tất cả đều căng mình để giữ cho "động mạch lớn" ấy được thông suốt. Ðội trưởng Trung tâm Vận hành Ðồng Hới Hoàng Ngọc Cảnh vẫn chưa hết bàng hoàng khi nhắc lại những ngày mà cả trạm biến áp 220 kV Ba Ðồn bị nước vây hãm. Tất cả các mương cáp đều bị ngập. Liên tục trong ba ngày/đêm từ ngày 19 đến ngày 22-10, cả năm anh em dầm trong mưa để thay phiên nhau bơm hút nước duy trì khoảng cách nước đến tủ đấu dây trong nhà là 30 cm. Ðể duy trì ở mực nước thấp hơn mực nước chung quanh, công việc bơm nước không được ngưng một phút, một giờ…

Giọng bùi ngùi, Giám đốc Truyền tải điện Quảng Bình Nguyễn Ngọc Lâm nói về sự hiểm nguy của công việc truyền tải trong thiên tai. Tính từ 14 giờ ngày 18 đến 6 giờ ngày 19-10, lượng mưa rất lớn (khoảng 600-700 mm) đã làm ngập lụt nhiều vị trí xung yếu như: Ðường dây 500 kV Vũng Áng - Ðà Nẵng bị ngập từ 0,7 - 3,5m (29 vị trí); đường dây 500kV Ðà Nẵng - Hà Tĩnh bị ngập từ 1,3 - 2,7 m (30 vị trí); đường dây 220 kV Vũng Áng - Ba Ðồn - Ðồng Hới bị ngập 0,5 - 1,7 m (28 vị trí); đường dây 220 kV Ðồng Hới - Ðông Hà mạch 1 bị ngập 0,5 m (7 vị trí)… Không một cán bộ, công nhân truyền tải nào từ chối nhiệm vụ xông pha vào tuyến càng sớm càng tốt để nắm thật đúng tình hình còn đề xuất phương án phòng hộ tốt nhất.

Ðến giờ, anh Nguyễn Ngọc Thơ - công nhân Truyền tải điện Ðồng Hới mới có thời gian để quay về dọn dẹp, sửa chữa lại ngôi nhà đã ngập sâu của mình. Trong khi cha mẹ, vợ con đang bám trụ ở ngôi nhà nằm ở vùng rốn lũ của địa bàn huyện Quảng Ninh, vì nhiệm vụ, anh vẫn phải tạm biệt cha mẹ, vợ con để trực trên tuyến… Lòng dạ canh cánh nhưng anh hiểu rằng, hơn bao giờ hết, đồng đội cần mình sát cánh để thực hiện được nhiệm vụ khó khăn.

Với "người lính" truyền tải, chỉ có sự đoàn kết mới làm nên sức mạnh giúp họ vượt qua mọi thách thức, gian khổ. Ngay khi bão số 9 đổ bộ vào Quảng Ngãi tàn phá lưới điện phân phối, đường dây 110 kV Quảng Ngãi - Tư Nghĩa dài hơn 6.000 m bị đứt. Lúc này, nhân lực của Công ty Ðiện lực Quảng Ngãi đã chia đi đến từng xã, huyện để kiểm tra và khắc phục lưới điện hạ thế. Rất kịp thời, Công ty Truyền tải điện 3 quyết định gửi lực lượng chi viện hỗ trợ khắc phục sự cố. Chỉ trong ngày đầu tiên của tháng 11, toàn Ðội đã kéo rải dây một khoảng néo dài 1.300 m trong điều kiện thi công hết sức khó khăn.

Trách nhiệm đến cùng với công việc của mình, nhưng những người truyền tải vẫn không quên chung sức cùng cộng đồng vượt khó. Ðội trưởng Ðội Truyền tải Ðiện Ba Ðồn Nguyễn Thanh Bình kể lại, từng hộp cơm nóng hổi được gói ghém cẩn thận kèm theo nước lọc được anh em chèo đò đem đến tận tay người hoạn nạn. Rồi những phần quà nghĩa tình được trao đến từng hộ dân xã Quảng Hà, thị xã Ba Ðồn.

Vừa vận hành lưới điện truyền tải, vừa làm công tác cứu trợ giúp người dân vượt qua mưa lũ, cách ứng xử truyền thống rất mộc mạc mà sâu sắc "thương người như thể thương thân", "một miếng khi đói bằng một gói khi no" đã thấm sâu vào tâm khảm những người truyền tải. Bởi họ là người con của một dân tộc đã trải qua bao cuộc chiến tranh tàn khốc, bao đận thiên tai khắc nghiệt nên rất hiểu chân giá trị: Yêu thương là nền tảng đạo đức, luân lý của người Việt Nam.

Cuộc chinh phục kỳ vĩ

Nói đến những điều làm nên phẩm chất "người lính" truyền tải, nhớ lại câu chuyện cũng mang tính lịch sử - Xây dựng đường dây 500 kV Bắc - Nam, dài 1.600 km, từ Nhà máy Thủy điện Hòa Bình vào đến Phú Lâm. Ðây là công trình trọng điểm quốc gia mang ý nghĩa quan trọng giúp giải "cơn khát điện" của miền nam khi ấy. Dòng điện từ miền bắc sẽ giúp cho miền nam phát triển mạnh mẽ nền kinh tế. Thủ tướng Võ Văn Kiệt đặt ra yêu cầu cấp bách, thời hạn thực hiện công trình là ba năm, nhưng cần chạy đua với thời gian để rút ngắn hơn nữa thời gian thi công đi đôi với bảo đảm chất lượng và nêu cao tinh thần tiết kiệm. Ngày 5-4-1992 đã đi vào biên niên sử Ðiện lực Việt Nam và có thể cả biên niên sử đất nước, như là thời khắc nổ phát súng lệnh cho đội quân Năng lượng tiến vào cuộc chinh phục kỳ vĩ này.

Thế rồi, chỉ sau hai năm, đường dây 500 kV Bắc - Nam được đưa vào vận hành, sớm hơn một năm so với thời hạn ban đầu Thủ tướng giao. Sau này, nhân dân miền nam, nhân dân miền trung, anh em ngành Ðiện có nguyện vọng dựng tượng ông Sáu (tên người dân gọi Thủ tướng Võ Văn Kiệt), đã nhận được câu trả lời rất giản dị: "Tôi nghĩ rằng, nếu để tôn vinh, xứng đáng nhất là dựng tượng những người đã tham gia xây dựng ngành Năng lượng, làm ra điện đủ cung cấp cho dân xài…".

Cho đến nay, câu chuyện xây dựng tượng đài để ghi nhớ công ơn những người đã hy sinh vì công trình hợp nhất lưới điện ba miền vẫn còn ở khâu ý tưởng. Dẫu vậy, có lẽ mỗi người công nhân truyền tải điện khi bảo đảm vận hành an toàn công trình đều đã tạc tượng đài trong tâm khảm họ bởi hơn ai hết, họ cảm nhận được giá trị của những gì được tạo dựng từ tâm huyết của những thế hệ đi trước, những thế hệ dám làm, dám chịu trách nhiệm và dám hy sinh cho công trình đường dây 500 kV.

Những "người lính" truyền tải hôm nay tự nguyện viết tiếp những trang sử vẻ vang của ngành, cho dù phải đối diện rất nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt trong xây dựng mới các đường dây truyền tải… Có sự thử thách về địa hình, thời tiết khắc nghiệt và đôi khi cái khó cũng đến từ việc cơ chế chưa theo kịp với đòi hỏi của thực tế. "Ðiện phải đi trước một bước", không chỉ đơn giản là một mệnh lệnh thức, luôn được bắt gặp hầu như trong tất cả các văn bản ghi nhận những chủ trương, đường hướng, chính sách xây dựng kinh tế - xã hội có liên quan đến ngành điện và gần như trở thành câu cửa miệng mỗi lần nói đến chiến lược phát triển năng lượng, mà còn trở thành khát vọng, sự thôi thúc, nguồn động viên đội ngũ cán bộ, công nhân viên ngành điện, trong đó có những người lính truyền tải điện.

Trạm biến áp 220kV Huế ngập trong nước.(Ảnh: PHAN HỒNG PHƯƠNG)

Thanh Mai

 

 

Ứng dụng Công nghệ thông tin trong giải quyết công việc, cải cách thủ tục hành chính: Tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp

Trong những năm vừa qua, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động hải quan đã có những chuyển đổi mạnh mẽ, góp phần tạo nên diện mạo mới của Hải quan Việt Nam theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp, minh bạch, hiệu quả. Đồng thời, đóng góp quan trọng vào cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan, tạo thuận lợi thương mại, giúp doanh nghiệp thuận lợi trong quá trình làm thủ tục hải quan, giảm thời gian thông quan và hướng tới xây dựng Chính phủ điện tử.

Kết quả là đến nay, tất cả các khâu quản lý nhà nước về hải quan, các nghiệp vụ cốt lõi của ngành hải quan đều đã được tin học hóa và thực hiện bằng phương pháp điện tử. Trong đó, nổi bật là thực hiện thủ tục hải quan bằng phương pháp điện tử thông qua Hệ thống thông quan tự động VNACCS/VCIS; thực hiện thanh toán bằng phương thức điện tử với phương châm mọi lúc, mọi nơi, mọi phương tiện; thực hiện giám sát quản lý hải quan tự động tại các cảng biển và cảng hàng không; đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến; triển khai cơ chế một cửa quốc gia và ASEAN…   

Cán bộ, công chức Chi Cục Hải quan cửa khẩu Hữu Nghị - Cục Hải quan Lạng Sơn làm thủ tục hàng hóa xuất nhập khẩu.

Tăng cường cung cấp Dịch vụ công trực tuyến và Tích hợp Dịch vụ công trực tuyến lên Cổng dịch vụ công quốc gia

Cung cấp Dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) được ngành Hải quan bắt đầu triển khai thực hiện từ năm 2005 và liên tục được mở rộng trong những năm vừa qua. Thông qua các hệ thống DVCTTgồm: Hệ thống Thông quan tự động VNACCS/VCIS; Cổng thông tin một cửa quốc gia; Cổng thanh toán điện tử, Hệ thống HQ36a, đến nay 84% thủ tục hành chính (TTHC) trong lĩnh vực hải quan đã được cung cấp DVCTT mức độ 3,4.

Thực hiện chỉ đạo của Văn phòng Chỉnh phủ và Bộ Tài chính, trong năm 2020, Tổng cục Hải quan đã hoàn thành tích hợp 70 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 lên Cổng dịch vụ công quốc gia, nâng số dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực hải quan được cung cấp trên Cổng dịch vụ công quốc gia lên 72 dịch vụ công trực tuyến. Đồng thời, tiếp tục rà soát, cập nhật cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với các TTHC được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới.

Triển khai cơ chế một cửa quốc gia, cơ chế một cửa ASEAN

Với vai trò là cơ quan thường trực của Ủy ban chỉ đạo quốc gia về Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN và tạo thuận lợi thương mại, trong thời gian qua Tổng cục Hải quan đã phối hợp với các bộ ngành đẩy mạnh triển khai cơ chế một cửa quốc gia. Đến ngày 30/11/2020, đã có 13 bộ, ngành với 202 thủ tục hành chính được đưa lên Cơ chế một cửa quốc gia, xử lý gần 3,45 triệu bộ hồ sơ của trên 43,1 nghìn doanh nghiệp tham gia.

Về triển khai Cơ chế một cửa ASEAN và kết nối ngoài ASEAN, Việt Nam đã kết nối chính thức Cơ chế một cửa ASEAN để trao đổi thông tin C/O mẫu D điện tử với 9 nước gồm: Singapore, Malaysia, Indonesia và Thái Lan (từ 01/01/2018), Brunei (01/04/2019), Campuchia (01/07/2019), Myanmar (9/12/2019), Lào (23/12/2019) và Philippines (ngày 25/02/2020). Đến ngày 30/11/2020, tổng số C/O Việt Nam nhận từ các nước ASEAN là hơn  238 nghìn C/O, tổng số C/O Việt Nam gửi sang các nước là: 306,4 nghìn C/O..

Liên quan đến triển khai kết nối với đối tác ngoài ASEAN: Việt Nam đã hoàn thành việc kiểm thử kỹ thuật kết nối và trao đổi thông điệp thử nghiệm tờ khai hải quan xuất khẩu với Liên minh kinh tế Á - Âu; đang đàm phán trao đổi chứng nhận xuất xứ với Liên minh kinh tế Á - Âu; trao đổi thông tin C/O điện tử với Hàn Quốc; trao đổi chứng nhận điện tử với New Zealand (đã ký thỏa thuận hợp tác với New Zealand).

Ứng dụng Công nghệ thông tin trong tất cả các khâu quản lý nhà nước về hải quan

Công tác ứng dụng Công nghệ thông tin (CNTT) luôn được Tổng cục Hải quan chú trọng ứng dụng trong tất cả các khâu quản lý nghiệp vụ. Trong đó, tập trung đẩy mạnh triển khai thanh toán điện tử, thực hiện quản lý hải quan tự động, quản lý thuế xuất nhập khẩu, quản lý rủi ro, kiểm tra sau thông quan

Về thực hiện thủ tục hải quan điện tử: Tính đến nay, 100% các Cục Hải quan và Chi cục Hải quan đã thực hiện thủ tục hải quan điện tử, trên 99% doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã tham gia thực hiện thủ tục hải quan điện tử.

Về thanh toán điện tử, ngành Hải quan đã ký thỏa thuận phối hợp thu với 43 ngân hàng thương mại, trong đó có 31 ngân hàng tham gia thực hiện thanh toán điện tử 24/7. Đến nay số thu ngân sách bằng phương thức điện tử của cơ quan hải quan đã đạt trên 97% tổng số thu ngân sách của toàn ngành.

Để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, cơ quan Hải quan đã nâng cấp chương trình thanh toán nộp thuế điện tử 24/7 để  triển khai Chương trình doanh nghiệp nhờ thu. Trong năm 2020, chương trình Doanh nghiệp nhờ thu đã được cơ quan Hải quan tiếp tục triển khai mở rộng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn.

Hệ thống quản lý hải quan tự động cũng đã được Tổng cục Hải quan bắt đầu triển khai từ năm 2017. Thông qua  kết nối, trao đổi thông tin với doanh nghiệp kinh doanh cảng, sân bay, kho bãi, địa điểm chịu sự giám sát hải quan, Hệ thống VASSCM  không chỉ giúp cơ quan Hải quan có thể theo dõi chặt chẽ, kịp thời quá trình di chuyển, biến động và tình trạng của hàng hóa đang chịu sự giám sát hải quan mà còn mang lại những lợi ích thiết thực cho cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan có liên quan. Hệ thống VASSCM góp phần làm cho hồ sơ, thủ tục để đưa hàng ra khỏi kho bãi cảng đơn giản; giảm tiếp xúc giữa hải quan và doanh nghiệp; giảm thời gian đi lại làm thủ tục của doanh nghiệp xuất nhập khẩu khắc phục được tình trạng ùn tắc tại cổng cảng/kho bãi; tạo ra sự thuận lợi, minh bạch trong quản lý điều hành công việc của doanh nghiệp.

     Triển khai Cung cấp thông tin tờ khai hải quan: Nhằm tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong quá trình làm thủ tục hải quan cũng như nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hải quan, thực hiện Quyết định số 33/2016/QĐ-TTg ngày 19/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế cung cấp, sử dụng thông tin tờ khai hải quan điện tử, từ ngày 15/3/2017, Cổng thông tin tờ khai hải quan chính thức được vận hành, cung cấp thông tin tờ khai hải quan điện tử cho các Bộ, ngành có liên quan để thực hiện các thủ tục về thuế, cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa, thủ tục thanh toán qua ngân hàng và các thủ tục hành chính khác; chứng minh tính hợp pháp của hàng hóa lưu thông trên thị trường.

Lợi ích trong triển khai ứng dụng CNTT, cung cấp DVCTT

Việc ứng dụng CNTT, cung cấp DVCTT của Tổng cục Hải quan trong thời gian vừa qua không chỉ mang lại lợi ích về mặt kinh tế (tiết kiệm thời gian, chi phí sử dụng nguồn lực hiệu quả nhờ việc nộp hồ sơ và nhận kết quả thực hiện TTHC hoàn toàn thông qua mạng internet)…mà còn có ý nghĩa đặc biệt trong công tác phòng chống dịch, đặc biệt là trong những thời điểm dịch bệnh bùng phát, cả nước thực hiện cách ly xã hội.

Khi thực hiện các TTHC qua hệ thống DVCTT doanh nghiệp giảm được thời gian đi lại, chờ đợi tại địa điểm thực hiện thủ tục, từ đó tiết kiệm được thời gian, chi phí.  Đồng thời khi sử dụng DVCTT, các hồ sơ TTHC cũng được số hóa, giúp doanh nghiệp có thể cắt giảm được các chi phí về hồ sơ, giấy tờ, in ấn. Trong thời điểm dịch bệnh như hiện nay, việc giảm tiếp xúc vào hồ sơ cũng là góp phần giảm sự lây lan của dịch bệnh;

Hệ thống DVCTT là kênh tiếp nhận, xử lý các TTHC giúp cho người dân và doanh nghiệp không cần phải trực tiếp đến trụ sở cơ quan hải quan. Người dân và doanh nghiệp có thể nộp hồ sơ qua hệ thống từ thiết bị có kết nối mạng internet. Việc tiếp nhận, xử lý, trả kết quả đều được thực hiện thông qua hệ thống, nhờ đó có thể giảm được sự tiếp xúc trực tiếp của người làm thủ tục và công chức giúp cho quá trình thực hiện được công khai, minh bạch, không có sự phiền hà, sách nhiễu, can thiệp từ công chức hải quan. Đặc biệt là, việc giảm sự tiếp xúc là yếu tố quan trọng để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh.

Việc giải quyết TTHC theo cách thông thường đòi hỏi cơ quan nhà nước phải sắp xếp nhiều nhân lực hơn để tiếp nhận, rà soát hồ sơ cũng như giải đáp hỗ trợ người dân thực hiện TTHC trực tiếp tại trụ sở. Tuy nhiên với việc ứng dụng CNTT, hệ thống thông tin có thể giúp người dân dễ dàng tiếp nhận thông tin, hướng dẫn thực hiện đồng thời hỗ trợ các cơ quan trong việc rà soát xử lý hồ sơ TTHC. Điều này giúp cho các cơ quan nhà nước có thể nâng cao hiệu quả giải quyết công việc, sử dụng nguồn lực hiệu quả. Đồng thời, với việc tiếp nhận hồ sơ TTHC thông qua hệ thống DVCTT, ngành Hải quan cũng có thể thuận lợi triển khai việc làm việc từ xa nhờ dễ dàng phân luồng hồ sơ cho công chức trên hệ thống đáp ứng các yêu cầu về cách ly xã hội trong thời điểm bùng phát dịch bệnh.

Công tác hỗ trợ, tháo gỡ vướng mắc trong quá trình triển khai

Trong quá trình triển khai các hệ thống CNTT và cung cấp DVCTT, công tác đào tạo, hướng dẫn, hỗ trợ luôn được Tổng cục Hải quan chú trọng. Không chỉ là các khóa đào tạo cho công chức hải quan, cho doanh nghiệp; các tài liệu hướng dẫn được cập nhật đầy đủ trên Cổng Thông tin điện tử TCHQ mà Tổng cục Hải quan luôn duy trì bộ phận hỗ trợ (helpdesk) 24/7 kể cả ngày lễ tết, để tiếp nhận, xử lý vướng mắc người dân và doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực hải quan; đảm bảo vận hành hệ thống luôn hoạt động thông suốt.

Thông qua đầu số điện thoại 19009299, Tổng đài hỗ trợ của Tổng cục Hải quan có thể cùng một lúc tiếp nhận 60 giao dịch đồng thời, bao gồm cuộc gọi đến/ đi và các cuộc gọi trong hàng đợi. Các cuộc gọi đến được tự động phân chia vào các line; đều được ghi nhật ký và tổng hợp tự động thông qua hệ thống để phục vụ công tác thống kê, báo cáo, phân tích, cũng như giúp nâng cao chất lượng hỗ trợ.

Ngoài ra, bộ phận hỗ trợ còn tiếp nhận các vướng mắc của người sử dụng qua địa chỉ email: bophanhotrotchq@customs.gov.vn. Khi email vướng mắc doanh nghiệp gửi đến sẽ được tích hợp vào phân hệ xử lý riêng trên hệ thống, được tự động tiếp nhận và phân bổ đều cho các cán bộ hỗ trợ trong ca trực, đồng thời nội dung xử lý của email sẽ được ghi nhận trên hệ thống. 

Có thể nói, Các ứng dụng công nghệ thông tin đã được ngành Hải quan tiếp tục triển khai hiệu quả trong năm 2020. Đặc biệt trong bối cảnh chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, Các ứng dụng Công nghệ thông tin trong mọi hoạt động nghiệp vụ của ngành không chỉ góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả của cơ quan hải quan, tạo nhiều thuận lợi, đem lại lợi ích cho người dân và doanh nghiệp mà còn có những đóng góp to lớn cho trong công tác phòng chống dịch, góp phần thực hiện mục tiêu chung của đất nước.

 

QC