Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải

BLTTDS 2015 quy định cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khá nhiều quyền và nghĩa vụ nhưng BLTTDS 2015 lại không quy định về hậu quả pháp lý trong trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt khi được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp.

1. Quy định của BLTTDS 2015 về quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và quyền, nghĩa vụ của họ được quy định tại Điều 75, Điều 76 BLTTDS 2015. Theo đó, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có các quyền và nghĩa vụ: (1) Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng dân sự; (2) Thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của BLTTDS 2015; (3) Tham gia việc hòa giải, phiên họp, phiên tòa hoặc trường hợp không tham gia thì được gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa án xem xét; (4) Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác theo quy định của BLTTDS; (5) Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; trường hợp được đương sự ủy quyền thì thay mặt đương sự nhận giấy tờ, văn bản tố tụng mà Tòa án tống đạt hoặc thông báo và có trách nhiệm chuyển cho đương sự; (6) Các quyền, nghĩa vụ quy định tại các khoản 1, 6, 16, 17, 18, 19 và 20 Điều 70 của BLTTDS[1]; (7) Quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.

Nhằm bảo đảm quyền tranh tụng, bảo đảm tốt hơn việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, BLTTDS 2015 đã bổ sung thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (sau đây viết là phiên họp) bao gồm cả người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có) (điểm đ khoản 1 Điều 209). Do đó, Tòa án phải triệu tập người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia phiên họp. Có thể thấy, quy định này đã bảo đảm sự thống nhất trong BLTTDS 2015, phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 76 BLTTDS 2015.

Điều 76 BLTTDS 2015 quy định về quyền, nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, khoản 3 quy định rõ: “Tham gia việc hòa giải, phiên họp, phiên tòa hoặc trường hợp không tham gia thì được gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa án xem xét.”.

Với quy định tại khoản 3 Điều 76 BLTTDS như nêu ở trên thì đây là quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và đã là quyền thì họ có thể thực hiện hoặc không thực hiện. Điều này có nghĩa là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể có mặt tại phiên họp hoặc vắng mặt tại phiên họp, cũng như họ có thể gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa án xem xét hoặc không gửi văn bản này.

Đồng thời, BLTTDS 2015 cũng đã quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án[2].

2. Kiến nghị, đề xuất

Mặc dù BLTTDS 2015 quy định cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khá nhiều quyền và nghĩa vụ như đã nêu ở trên nhưng BLTTDS 2015 lại không quy định về hậu quả pháp lý trong trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt khi được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp. Điều này dẫn đến các Tòa án xử lý theo các cách khác nhau, có Tòa án hoãn phiên họp để bảo đảm “an toàn”, có Tòa án vẫn tiến hành phiên họp.

Vì vậy, để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, Hội đồng Thẩm phán TANDTC cần hướng dẫn về vấn đề này.

Theo tác giả, với mục đích bảo đảm quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình của đương sự[3], bảo đảm quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, đồng thời nâng cao trách nhiệm cũng như tránh việc lợi dụng quyền được tham gia phiên họp để kéo dài thời gian giải quyết vụ án của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cần hướng dẫn cụ thể như sau:

“Trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì được gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa án xem xét; nếu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt và không gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa án xem xét thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp.”

Theo tác giả, về lâu dài, khi có điều kiện sửa đổi, bổ sung BLTTDS 2015 thì vấn đề này cũng cần được luật hóa vào Điều 209 của BLTTDS 2015.

[1] Các khoản 1, 6, 16, 17, 18, 19 và 20 Điều 70 BLTTDS 2015 quy định như sau:
“1. Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa;
6. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình;
16. Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành quyết định của Tòa án trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc;
17. Đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng;
18. Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ việc theo quy định của Bộ luật này;
19. Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng;
20. Tranh luận tại phiên tòa, đưa ra lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng;”
[2] Khoản 6 Điều 76 và khoản 16 Điều 70 BLTTDS 2015.
[3] Khoản 13 Điều 70 BLTTDS 2015.

KIM QUỲNH