Kiến nghị hoàn thiện quy định về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác

Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung nghiên cứu quy định về những người được bảo vệ; các biện pháp bảo vệ; đề nghị, yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo vệ; quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ trong BLTTHS năm 2015. Qua đó nêu ra một số hạn chế, vướng mắc còn tồn tại và kiến nghị hoàn thiện.

BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một chương (Chương XXXIV) trong phần thứ bảy (thủ tục đặc biệt) về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác. Đối với các quy định về cơ quan, người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ; quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ; chấm dứt bảo vệ; hồ sơ bảo vệ… bộ luật đã quy định cụ thể.

1.Quy định chung

Hiện nay, chưa có cơ quan, đơn vị nào có báo cáo hoặc thống kê chính thức về tình hình đe doạ, xâm hại đối với người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác trong vụ án hình sự, nhưng qua nghiên cứu một số vụ án xảy ra, có thể xác nhận những tác động của người phạm tội hoặc thân nhân của họ như mua chuộc, đe doạ, gây thiệt hại là có thật và là nguyên nhân dẫn đến một số vụ án hình sự không được làm rõ hoặc không được xử lý triệt để và dẫn đến các kết quả tiêu cực khác. Trong một số vụ án, với thủ đoạn che giấu tội phạm bằng cách mua chuộc, đe dọa và thực hiện các hành vi bạo lực, kẻ phạm tội đã khiến công dân hoang mang, lo sợ, không dám tố giác, dẫn đến những vụ án này không được xử lý triệt để, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự sa vào tình trạng ra các quyết định không chính xác so với thực tế của vụ án. [1]

Xuất phát từ thực trạng trên cho thấy vai trò của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác hết sức quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử góp phần giải quyết vụ án bảo đảm tính khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

BLTTHS năm 2003 đã có một số quy định về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác, cụ thể:

– Điều 7 quy định người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật; điểm a khoản 3 Điều 55 quy định người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng; tại khoản 3 Điều 103 quy định Cơ quan điều tra phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội phạm.

Các quy định này chưa đầy đủ nên thực tiễn áp dụng gặp nhiều vướng mắc. Khắc phục hạn chế của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một chương (Chương XXXIV) trong phần thứ bảy (Thủ tục đặc biệt) quy định về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác. Trong chương này đã quy định một cách cụ thể, rõ ràng các vấn đề sau: Những người được bảo vệ; cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ; các biện pháp bảo vệ; đề nghị, yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo vệ; quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ; chấm dứt việc bảo vệ; hồ sơ bảo vệ.

Điều 484 BLTTHS quy định về người được bảo vệ gồm: “Người tố giác tội phạm; người làm chứng; bị hại; người thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại”.[2]

………………[3]

Điều 486 về các biện pháp bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác bao gồm:

Khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại do việc cung cấp chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định áp dụng những biện pháp sau đây để bảo vệ họ: 

a) Bố trí lực lượng, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và các phương tiện khác để canh gác, bảo vệ; 

b) Hạn chế việc đi lại, tiếp xúc của người được bảo vệ để bảo đảm an toàn cho họ; 

c) Giữ bí mật và yêu cầu người khác giữ bí mật các thông tin liên quan đến người được bảo vệ; 

d) Di chuyển, giữ bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập; thay đổi tung tích, lý lịch, đặc điểm nhân dạng của người được bảo vệ, nếu được họ đồng ý; 

đ) Răn đe, cảnh cáo, vô hiệu hóa các hành vi xâm hại người được bảo vệ; ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi xâm hại theo quy định của pháp luật; 

e) Các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật. 

Việc áp dụng, thay đổi các biện pháp bảo vệ quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo vệ.

Theo quy định trên, bên cạnh các biện pháp cụ thể thì có thể áp dụng các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật (điểm e khoản 1 Điều 486). Đây là quy định mới tại BLTTHS năm 2015, theo đó, ngoài các biện pháp phổ biến đã được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng nói trên và nếu phù hợp với điều kiện Việt Nam, các biện pháp bảo vệ khác cần được tiếp tục nghiên cứu áp dụng.

Việc áp dụng các biện pháp bảo vệ và thay đổi các biện pháp bảo vệ trong quá trình áp dụng đều nhằm bảo đảm an toàn cho người được bảo vệ nhưng áp dụng, thay đổi các biện pháp bảo vệ nói trên không được làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo vệ. Do đó, khi quyết định lựa chọn biện pháp bảo vệ hay khi quyết định thay đổi biện pháp bảo vệ nào, cơ quan có thẩm quyền cần xem xét, đánh giá thật kỹ càng ảnh hưởng của nó đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo vệ. Chỉ áp dụng hoặc thay đổi những biện pháp bảo vệ khi vừa bảo đảm sự an toàn cho người đó vừa không gây thiệt hại nhiều đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Điều 487 về việc đề nghị, yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo vệ: “1. Người được bảo vệ có quyền làm văn bản đề nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ”.[4]

Điều 488 về quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ:

… Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ được gửi cho người yêu cầu bảo vệ, người được bảo vệ, Viện kiểm sát, Tòa án đã đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ và cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan đến việc bảo vệ ...[5]

2.Những hạn chế, vướng mắc

2.1. Quy định các biện pháp bảo vệ mang tính chung chung

Bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác là quy định mới tại Bộ luật TTHS 2015 nhưng mới chỉ dừng lại ở mức quy định những vấn đề chung, cơ bản nên cũng cần có sự giải thích hướng dẫn áp dụng cụ thể mới phát huy được hiệu quả. Ví dụ: Điểm e khoản 1 Điều 486 quy định “các biện pháp bảo vệ khác theo quy định”. Theo tác giả, việc quy định chung chung như trên sẽ dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật mang tính tùy nghi, áp dụng không thống nhất giữa các địa phương ảnh hưởng đến quyền lợi của người được bảo vệ.

2.2.Chưa quy định thời hạn gửi quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ

Khoản 2 Điều 488 quy định “Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ được gửi cho người yêu cầu bảo vệ, người được bảo vệ, Viện kiểm sát, Tòa án đã đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ và cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan đến việc bảo vệ”.  Tuy nhiên, điều luật chưa quy định cụ thể về việc gửi quyết định cho người bảo vệ trong thời hạn bao nhiêu ngày kể từ ngày ra quyết định. Mặc dù theo quy định tại khoản 3 Điều 488 BLTTHS thì có thể hiểu rằng gửi quyết định cho người được bảo vệ kể từ ngày ra quyết định. [6]

2.3.Quy định chưa đầy đủ về những người được bảo vệ[7]

Đọc bài viết “Bất cập trong quy định về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại” của tác giả Nguyễn Cao Cường – VKSND huyện A Lưới, Thừa Thiên – Huế, chúng tôi nhất trí với quan điểm của tác giả bài viết đưa ra về quy định chưa đầy đủ những người được bảo vệ cũng như quy định chưa thống nhất về người được đề nghị, yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo vệ. Tác giả xin trích nguyên văn bài viết như sau:

Điều 484 BLTTHS năm 2015 quy định những người được bảo vệ chỉ gồm: (1) Người tố giác tội phạm; (2) Người làm chứng; (3) Bị hại; (4) Người thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại. Với quy định tại các điều 57, 67, 70 Bộ luật này thì người báo tin về tội phạm, người chứng kiến, người phiên dịch, người dịch thuật và người thân thích của họ cũng thuộc đối tượng được bảo vệ:

– Tại điểm a khoản 1 Điều 57 Bộ luật này quy định cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giữ bí mật việc tố giác, báo tin về tội phạm, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ, người thân thích của họ khi bị đe dọa.

– Tại điểm b khoản 3 Điều 67 Bộ luật này quy định một trong các quyền của người chứng kiến là yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tuân thủ quy định của pháp luật, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa.

– Tại điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật này quy định người phiên dịch, người dịch thuật có quyền đề nghị cơ quan yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa.

2.4.Quy định chưa thống nhất về người được đề nghị, yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo vệ[8]

Theo quy định tại Điều 487 BLTTHS năm 2015 thì chỉ người được bảo vệ mới có quyền làm văn bản đề nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ, còn người đại diện của họ thì không có quyền này. Vậy thì ngay cả người được bảo vệ là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần cũng phải tự mình yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ. Như vậy chưa đáp ứng được yêu cầu bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi.

Trong khi Điều 487 BLTTHS năm 2015 quy định chỉ bị hại mới có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ thì tại điểm l khoản 2 Điều 62 Bộ luật này lại quy định cả bị hại và người đại diện của bị hại đều có quyền này.

2.5.Về khoản 4 Điều 488 BLTTHS

Khoản 4 Điều 488 BLTTHS quy định “Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng có thể thay đổi, bổ sung biện pháp bảo vệ trong quá trình bảo vệ nếu xét thấy cần thiết”.

Dưới góc độ nghiên cứu lý luận, tác giả thấy rằng việc quy định trong trường hợp nào là “cần thiết” để cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định áp dụng có thể thay đổi, bổ sung biện pháp bảo vệ trong quá trình bảo vệ gây ra khó khăn khi áp dụng. Bởi lẽ, nếu không có hướng dẫn cụ thể thì các cơ quan có thẩm quyền trong một số trường hợp sẽ viện dẫn quy định của pháp luật chưa rõ ràng, chưa cụ thể để không áp dụng, có trường hợp đủ điều kiện để áp dụng nhưng không áp dụng hoặc ngược lại.

Ví dụ: Nguyễn Thị A là người làm chứng trong vụ án “cướp tài sản” và được áp dụng biện pháp bảo vệ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 486 BLTTHS “Hạn chế việc đi lại, tiếp xúc của người được bảo vệ để bảo đảm an toàn cho họ”. Tuy nhiên, người làm chứng cho rằng họ không an toàn khi áp dụng biện pháp bảo vệ này nên đề nghị bổ sung biện pháp bảo vệ theo điểm a khoản 1 “Bố trí lực lượng, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và các phương tiện khác để canh gác, bảo vệ”. Trong ví dụ trên có thuộc trường hợp cần thiết để áp dụng không ? Vì không có hướng dẫn cụ thể nên sẽ có những quan điểm áp dụng khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở các địa phương khác nhau.

3.Kiến nghị

Từ những vướng mắc, bất cập trên, tác giả kiến nghị:

Thứ nhất, trong thời gian tới, các cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn chi tiết hơn các quy định tại Điều 486 về áp dụng các biện pháp bảo vệ, về cách thức thực hiện các biện pháp bảo vệ cũng như những vấn đề khác liên quan. Trong đó, hướng dẫn cụ thể áp dụng các biện pháp bảo vệ khác tại điểm e khoản 1 Điều 486.

Thứ hai, quy định thống nhất về thời hạn gửi quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ cho người được bảo vệ và hướng dẫn cụ thể các cum từ mang tính tùy nghi, trừu tượng như “cần thiết” tại Điều 488 BLTTHS.

Thứ ba: Cần bổ sung người chứng kiến, người phiên dịch, người dịch thuật vào diện những người được bảo vệ quy định tại khoản 1 Điều 484 BLTTHS năm 2015:

“Điều 484. Người được bảo vệ

Những người được bảo vệ gồm: 

a) Người tố giác, báo tin vềtội phạm; 

b) Người làm chứng; 

c) Bị hại; 

d) Người chứng kiến;

đ) Người phiên dịch, người dịch thuật; 

e) Người thân thích của người tố giác, báo tin vềtội phạm, người làm chứng, bị hại, người chứng kiến, người phiên dịch, người dịch thuật.

2…”

Thứ tư: Cần quy định bổ sung cho người đại diện của người được bảo vệ là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần quyền đề nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ vào Điều 487 BLTTHS.

Phiên tòa xét xử vụ gian lận điểm thi ở Sơn La ngày 21/5, nhiều người làm chứng vắng mặt – Ảnh: Minh Chuyên/ Báo GT

 

[1] Xem bài viết: Hoàn thiện cơ sở pháp lý về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự tại trang web: https://luathinhsu.wordpress.com/2010/08/26/hoan-thien-co-so-phap-ly-ve-bao-ve-nguoi-to-giac-nguoi-lam-chung-nguoi-bi-hai-trong-vu-an-hinh-su/

[2] Người thân thích của người được bảo vệ: Xem điểm e khoản 1 Điều 4 Bộ luật TTHS.

[3]Xem  Điều 484 Bộ luật TTHS về “người được bảo vệ”.

[4] Xem Điều 487 Bộ luật TTHS.

[5] Xem Điều 488 Bộ luật TTHS.

[6] Xem Điều 488 Bộ luật TTHS “quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ”.

[7] Trích bài viết: Bất cập trong quy định về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại -Tác giả: Nguyễn Cao Cường – VKSND huyện A Lưới, Thừa Thiên – Huế tại trang web: https://kiemsat.vn/bat-cap-trong-quy-dinh-ve-bao-ve-nguoi-to-giac-toi-pham-nguoi-lam-chung-bi-hai-50481.html

[8] Trích bài viết: Bất cập trong quy định về bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại -Tác giả: Nguyễn Cao Cường – VKSND huyện A Lưới, Thừa Thiên – Huế tại trang web: https://kiemsat.vn/bat-cap-trong-quy-dinh-ve-bao-ve-nguoi-to-giac-toi-pham-nguoi-lam-chung-bi-hai-50481.html

PHÙNG VĂN HOÀNG ( Tòa án quân sự khu vực, Quân khu 1)