Cần trả lại ½ giá trị chiếc xe cho chị Trần T

Sau khi nghiên cứu bài viết “Xử lý vật chứng dùng vào việc phạm tội là tài sản chung của vợ chồng”của tác giả Đinh Minh Lượng (Tòa án quân sự Khu vực 2 Quân khu 5) đăng ngày 19/2/2021, tôi đồng tình với quan điểm thứ ba.

Thứ nhất, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015 quy định vật chứng được xử lý như sau: a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy; b) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước; c) Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu hủy…”

Tuy nhiên tại theo Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về Tài sản chung của vợ chồng như sau:

 “1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”

Trong vụ án này, “có đủ cơ sở để khẳng định hành vi của Hoàng A, Nguyễn Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, việc xử lý vật chứng là chiếc xe mô tô nhãn hiệu Jupiter BKS 43N1-312.20 là tài sản dùng vào việc phạm tội còn có quan điểm khác nhau, vì đây là tài sản chung giữa Hoàng A và vợ là chị Trần T; chị Trần T không biết việc chồng mình là Hoàng A dùng xe máy là tài sản chung của vợ chồng vào việc trộm cắp tài sản; hoàn cảnh gia đình chị Trần T rất khó khăn, chỉ có chiếc xe máy này là phương tiện đi lại nên đã viết đơn gửi tới Tòa án xin lại chiếc xe”.

Theo quan điểm của cá nhân tôi, trường hợp này cần quyết định tịch thu, phát mại, nộp ngân sách nhà nước ½ giá trị tài sản là xe mô tô nhãn hiệu Jupiter BKS 43N1-312.20, trả lại chị Trần T ½ giá trị của xe. Tuy nhiên, nếu xét thấy chiếc xe mô tô là tài sản thiết yếu, phục vụ công việc của chị Trần T, hoặc sinh hoạt của gia đình (như đưa, đón con đi học) thì trả lại chiếc xe cho chị T.

Trên đây là nội dung trao đổi của tôi về bài viết “Xử lý vật chứng dùng vào việc phạm tội là tài sản chung của vợ chồng”. Rất mong nhận được ý kiến trao đổi của độc giả.

 

DƯƠNG VĂN HƯNG (Tòa án quân sự Quân chủng Hải quân)