Công ty H không phải là người thứ ba ngay tình
Sau khi đọc bài viết “Hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu hay người thứ ba ngay tình?” của tác giả Chu Thanh Tùng, đăng ngày 12/1, tôi cho rằng Công ty H không phải là người thứ ba ngay tình, giao dịch có hiệu lực theo quy định.
Thứ nhất, yêu cầu độc lập của cụ D, cụ Y là không có cơ sở
Theo kết luận giám định thì chữ ký mang tên cụ Y trên Giấy cam kết đã thanh toán xong tiền bán doanh nghiệp ngày 10/5/2009, Hợp đồng mua bán chi nhánh Trạm xăng dầu ngày 10/5/2009, Thông báo bán doanh nghiệp tư nhân ngày 10/5/2009 không phải là chữ ký của cụ Y. Như vậy chữ ký của cụ Y chỉ trên những giấy cam kết và hợp đồng mua bán trạm xăng dầu, không liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Vì thế hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vẫn có hiệu lực pháp luật, cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào đó để đăng ký sang tên cho ông Q, bà T là đúng pháp luật, theo quy định tại Điều 122 BLDS 2005, Điều 106 Luật đất đai 2003.
Kết luận giám định khẩng định, Hợp đồng mua bán chi nhánh trạm xăng dầu, thông báo bán doanh nghiệp tư nhân, giấy cam kết đã thanh toán xong tiền bán doanh nghiệp có chữ ký của cụ Y nhưng không phải do cụ Y ký. Tuy nhiên, các thông báo giao dịch này được thực hiện từ thời điểm năm 2009, sau khi ký kết Hợp đồng, ông Q, bà T là người quản lý điều hành hoạt động của trạm xăng dầu thì và cụ Y hoàn toàn biết nhưng không phản đối trong một thời gian dài, quyền lợi bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhưng cụ Y không khiếu nại, tố cáo hay có bất cứ động thái gì là không phù hợp với lẽ thường. Có thể khẳng định cụ Y hoàn toàn biết việc này nhưng đã đồng ý việc mua bán như trên. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu độc lập của cụ D, Y về việc tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng nêu trên.
Thứ hai, về giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Do nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bao gồm 2 thửa đất và trạm xăng dầu nói trên, thời điểm bà T thực hiện giao dịch, toàn bộ tài sản trên đang trong tình trạng tranh chấp tài sản sau ly hôn, tòa án đã tiến hành thụ lý giải quyết vụ án, do đó quyền sử dụng đất nói trên đang trong tình trạng tranh chấp, chưa đủ điều kiện giao dịch theo Điều 188 Luật Đất đai 2013.
Tiếp đó, Điều 121 BLTTDS 2015 quy định cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp. Tuy nhiên tại thời điểm Công ty H nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà T thì chưa có bất cứ văn bản/quyết định nào của cơ quan có thẩm quyền về việc cấm, hạn chế giao dịch đối với tài sản trên. Đồng thời việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà T và Công ty H được thực hiện đúng quy định pháp luật, phù hợp quy định tại Điều 117 BLDS 2015 ( Điều 122 BLDS 2005), Công ty T đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Do đó, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu tuyên giao dịch chuyển nhượng trên vô hiệu của cụ D, cụ Y.
TAND huyện Kbang, Gia Lai xét xử vụ án dân sự - Ảnh: Đinh Ngọc Thảo
Bài liên quan
-
Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định hình thức và thực tiễn giải quyết tranh chấp
-
Hợp đồng đặt cọc và bán nhà vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật
-
Hợp đồng đặt cọc và bán nhà giữa bà A và bà O không vô hiệu
-
“Hợp đồng đặt cọc và bán nhà” liệu có vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được ngay từ khi giao kết?
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Vi phạm, khuyết điểm của ông Võ Văn Thưởng đã gây dư luận xấu, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước
-
Thứ bậc hiệu lực pháp lý và nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
-
Thủ tướng chỉ đạo hỏa tốc về việc sớm triển khai Luật Đất đai
-
Toà án Quân sự Khu vực Quân khu 9, xét xử rút kinh nghiệm vụ án hối lộ
-
Chủ tịch UBND huyện Nhơn Trạch bị lừa mất khoảng 170 tỷ - Cảnh báo về tội phạm công nghệ cao
Bình luận