Các đối tượng phạm tội gì?

Vay 100 triệu, đã trả 45 triệu vẫn phải viết giấy nhận nợ 284 triệu đồng, rồi viết giấy nhận cọc 320 triệu đồng nữa. Chủ nợ sai người bắt giữ, đánh người vay để đòi tiền. Hành vi của những người “đòi nợ” này phạm tội gì?

Ngày 11/4/2020, Nguyễn Văn T có chuyển khoản cho Đỗ Thị N vay 100.000.000 đồng. Sau đó Đỗ Thị N đã chuyển khoản trả cho T hai lần với số tiền 45.000.000 đồng. Đến khoảng tháng 5/2020, T yêu cầu N phải viết giấy nhận nợ 284.000.000 đồng; sau đó N tiếp tục phải viết giấy nhận cọc số tiền 320.000.000 đồng của T dùng để mua hàng trang trí nội thất.

Khi đến hạn mà N vẫn không trả nợ, T không liên lạc được với N, nên T đã nhờ Trần Văn L liên lạc, tìm N để đòi tiền T. Trần Văn L vào một số trang mạng xã hội để đăng tin tìm N.

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 18/7/2020, Trần Văn L đang nhậu với Nguyễn Hữu K, Nguyễn Huy D và một số người bạn ở Quận X, thành phố M thì có đối tượng tên H (chưa rõ lai lịch) gọi điện thoại qua mạng Zalo cho L báo tin phát hiện chị N, đề nghị bán thông tin về địa điểm của chị N với giá 10.000.000 đồng, L đồng ý nên biết được thông tin chị N đang ở số 31 Cửu Long, quận T, thành phố M. L gọi điện báo tin cho T biết sự việc rồi nói với mọi người dừng nhậu để đi đến địa điểm trên gặp chị N. Nghe vậy nên K, D cũng xin đi theo hỗ trợ L và được L đồng ý.

Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, khi chị N đang ngồi cùng bạn tại số 31 Cửu Long thì nhóm của L đến nơi. L đưa cho H 10.000.000 đồng theo thỏa thuận; Nguyễn Hữu K, Nguyễn Huy D đứng phía ngoài quán quan sát, còn L đến gặp chị N. Chị N theo L ra ngoài, L tát vào mặt chị N một cái rồi nói “mày có biết tao là ai không, tao là L đây, tao tìm mày hơn một tháng nay”. L điện thoại qua Zalo báo cho T biết đã tìm được N, T nói với L “cứ xử lý đi”.

 T nói qua điện thoại của L cho N biết đã giao cho L làm việc với N để giải quyết nợ nần giữa T và N. L lại tát vào mặt chị N cho T thấy. Sau đó, L đưa chị N qua quán nước tại số 35 Cửu Long, quận T, thành phố M để tiếp tục nói chuyện và yêu cầu N trả nợ; K, D cùng đi theo L ngồi xung quanh. L gọi điện thoại báo cho Phạm Quang A (A là nhân viên pháp chế công ty của T). Sau đó Phạm Quang A điều khiển xe ô tô Iusuzu biển kiểm soát 51H-50121 cùng đến gặp chị N nói chuyện, chửi mắng yêu cầu chị N trả nợ. K và A có dùng tay tát vào mặt chị N. Sợ bị đánh tiếp nên chị N đã điện thoại cho bạn tên Đỗ Văn G mượn 20.000.000 đồng và nhờ G chuyển vào tài khoản ngân hàng của L. L đã nhận được tiền và đã đưa số tiền này cho Nguyễn Văn T.

Khoảng 23 giờ cùng ngày, quán đóng cửa, L đề xuất di chuyển đến địa điểm khác thì Quang A quay đầu xe di chuyển dừng trước cửa quán; đồng thời ở trong quán L dùng tay nắm, kéo tay N đi ra khỏi quán, N không chịu đi theo nên K xông vào đẩy N ra ngoài và cùng D bắt, khống chế N đưa lên xe ô tô. Quang A điều khiển xe ô tô, L ngồi ghế bên phải phía trước, lúc này A đề xuất đưa về nhà mình đang thuê tại địa chỉ 73 đường TB, quận S, thành phố M.

Đến nơi, cả nhóm đưa N lên phòng khách ở lầu 1 tiếp tục chửi mắng ép buộc N trả nợ. Tại đây Quang A, L, K, D có dùng tay đánh N. Lợi dụng lúc các đối tượng ngủ, N lấy điện thoại của N liên lạc báo tin và chia sẻ vị trí nơi mình đang bị bắt giữ cho chồng là Bùi Quang S và một số người bạn biết, nhờ trình báo Công an. Đến khoảng 10 giờ 30 phút ngày 19/7/2020, Công an phường T kết hợp Đội Cảnh sát hình sự Công an quận P kiểm tra số nhà 73 đường TB, quận S, thành phố M thì phát hiện A, K, L, D đang canh giữa N. Công an đưa tất cả về trụ sở làm việc.

Đối với vụ án trên, có nhiều quan điểm khác nhau về hành vi phạm tội của Trần Văn L, Nguyễn Hữu K, Nguyễn Huy D, Phạm Quang A, Nguyễn Văn T như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, Trần Văn L, Nguyễn Hữu K, Nguyễn Huy D, Phạm Quang A, Nguyễn Văn T phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo Điều 157 BLHS.

Quan điểm thứ hai cho rằng, Trần Văn L, Nguyễn Hữu K, Nguyễn Huy D, Phạm Quang A, Nguyễn Văn T phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo Điều 170 BLHS.

Quan điểm thứ ba cho rằng, Trần Văn L, Nguyễn Hữu K, Nguyễn Huy D, Phạm Quang A, Nguyễn Văn T phạm tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” theo Điều 169 BLHS.

Quan điểm thứ tư cho rằng (cũng là quan điểm của tác giả), Trần Văn L, Nguyễn Hữu K, Nguyễn Huy D, Phạm Quang A, Nguyễn Văn T phạm tội “Cướp tài sản” theo Điều 168 BLHS. Bởi vì, các đối tượng Trần Văn L, Nguyễn Hữu K, Nguyễn Huy D, Phạm Quang A đã có hành vi dùng vũ lực đối với chị N, làm cho chị N lo sợ nên đã điện thoại cho bạn là anh G mượn tiền và anh G đã chuyển vào tài khoản của L số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền thì N đã chuyển số tiền này cho Nguyễn Văn T. Mặt khác, T là người nhờ các đối tượng L, K, D, A đi đòi nợ cho mình và biết việc các đối tượng này dùng vũ lực để ép buộc chị N đưa tiền và sau khi chị N chuyển tiền thì đã đưa số tiền đó cho T. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định T là đồng phạm với L, K D, A về tội cướp tài sản.

Trên đây là nội dung vụ án và các quan điểm giải quyết, tác giả mong nhận được ý trao đổi để góp phần vào việc áp dụng pháp luật được thống nhất.     

 

Tòa án nhân dân huyện An Lão, Bình Định xét xử vụ án cưỡng đoạt tài sản - Ảnh: Hồ Chí Trường                                                         

                                  

HUỲNH PHAN CHÂU THÀNH (Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 7)