Tòa án không đương nhiên áp dụng quy định về thời hiệu trong giải quyết vụ việc dân sự khi đương sự không có yêu cầu

Qua nghiên cứu bài viết “Quy định về thời hiệu trong giải quyết vụ việc dân sự: Thực tiễn và bình luận” của ThS. Phan Thành Nhân đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 24/7/2021, tôi xin có ý kiến trao đổi.

Đầu tiên, có thể thấy pháp luật tố tụng dân sự hiện nay không đưa ra khái niệm cụ thể về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự mà dẫn chiếu đến BLDS 2015. Theo đó, khoản 3, Điều 150 BLDS 2015 quy định “thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện”. Về thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự, khoản 4, BLDS 2015 quy định “thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu”.

Hiện nay, theo quy định tại Điều 184 BLTTDS 2015, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện theo quy định trong BLDS 2015. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Điều này có nghĩa là các bên đương sự được quyền viện dẫn thời hiệu khởi kiện theo hướng có lợi cho mình trước khi Tòa án ra bản án, quyết định sơ thẩm để yêu cầu Tòa án áp dụng. Trường hợp đương sự không yêu cầu hoặc từ chối áp dụng thời hiệu, Tòa án vẫn tiến hành xét xử để ban hành bản án, quyết định theo thủ tục chung. Đây được xem là một trong những điểm mới đáng lưu ý của BLTTDS 2015. Như vậy, có thể thấy rằng suy cho cùng thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được xem như một loại chứng cứ có thể được đương sự viện dẫn nhằm chiếm ưu thế đối với đương sự còn lại trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.

Trong bài viết, tác giả nêu lên hai quan điểm liên quan đến đến việc áp dụng quy định về thời hiệu trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự khi các bên đương sự không có yêu cầu. Cụ thể, quan điểm thứ nhất cho rằng do các bên đương sự đều không có yêu cầu áp dụng thời hiệu nên Tòa án không áp dụng thời hiệu là phù hợp với quy định tại Điều 184 của BLTTDS 2015. Quan điểm thứ hai cho rằng thời điểm nguyên đơn biết được bị đơn vi phạm nghĩa vụ (ngày 15/7/2016) nhưng không thực hiện quyền khởi kiện mà để đến ngày 23/9/2020 mới khởi kiện là đã không còn thời hiệu khởi kiện về hợp đồng vay tài sản theo quy định tại khoản 3, Điều 150 và Điều 429 của BLDS 2015. Tại khoản 2, Điều 155 của BLDS năm 2015 và điểm b, khoản 3, Điều 23 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (gọi tắt là Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP), thì tranh chấp về quyền sở hữu tài sản không áp dụng thời hiệu khởi kiện nên trong trường hợp này nguyên đơn chỉ được quyền khởi kiện đòi lại số tiền nợ gốc. Việc Tòa án buộc bị đơn trả tiền lãi chậm trả là chưa phù hợp quy định pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn.

Tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất và cũng là quan điểm mà tác giả bài viết đồng tình. Bởi lẽ theo quy định đã trình bày ở trên thì Tòa án sẽ không đương nhiên áp dụng quy định về thời hiệu trong trường hợp một bên hoặc các bên đương sự không có yêu cầu. Để Tòa án áp dụng quy định về thời hiệu thì cần phải thỏa mãn các điều kiện là: vụ việc đã hết thời hiệu; có yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên đương sự; yêu cầu áp dụng thời hiệu được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Do vậy, việc quan điểm thứ hai cho rằng do thời hiệu khởi kiện đã hết nên Tòa án không giải quyết vụ việc mà không quan tâm đến các điều kiện còn lại là áp dụng chưa chính xác quy định tại Điều 184 BLTTDS 2015. Trong vụ việc này, Tòa án không áp dụng thời hiệu do các bên đương sự đều không có yêu cầu áp dụng thời hiệu là hoàn toàn có cơ sở.

Bên cạnh đó, pháp luật tố tụng cũng không có quy định về việc Thẩm phán có trách nhiệm giải thích cho đương sự quyền yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu. Tiểu mục 3, Mục IV Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của TAND tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử cũng đã hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Theo đó, việc yêu cầu áp dụng quy định về thời hiệu hay không là quyền tự quyết của đương sự và Thẩm phán không có trách nhiệm phải giải thích cho đương sự về quyền này nhằm đảm bảo bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Mặt khác, Điều 2 Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành BLTTDS 2015 quy định rằng “đối với các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động phát sinh trước ngày 01 tháng 01 năm 2017 thì áp dụng quy định về thời hiệu tại Điều 159 và điểm h khoản 1 Điều 192 của Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12”. Mà theo quy định tại khoản 1, Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 thì “thời điểm phát sinh tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 103/2015/QH13 là ngày khởi kiện, ngày yêu cầu”.  Đồng thời, khoản 4, Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP quy định rằng “từ ngày 01/01/2017, Tòa án áp dụng quy định của BLTTDS 2015, BLDS 2015 và luật khác có liên quan về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu để thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động”. Trong vụ việc này, đương sự khởi kiện ngày 23/9/2020, do đó việc áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện của BLTTDS 2015, BLDS 2015 để giải quyết là có căn cứ. Do đó, có thể thấy việc quan điểm thứ hai viện dẫn quy định tại điểm b, khoản 3, Điều 23 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP để xác định nguyên đơn chỉ được quyền khởi kiện đòi lại số tiền nợ gốc là chưa chính xác. Thêm nữa, tại thời điểm thụ lý giải quyết vụ án này thì BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã hết hiệu lực thi hành nên về nguyên tắc, Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP với tư cách là văn bản hướng dẫn thi hành cũng sẽ hết hiệu lực (Khoản 4, Điều 154 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015). Vì thế, không thể căn cứ vào quy định của Nghị quyết này để làm cơ sở giải quyết vụ việc nêu trên.

Trên đây là quan điểm cá nhân của tác giả, rất mong nhận được trao đổi từ những độc giả có quan tâm.

 

TAND huyện Châu Đức, BRVT xét xử vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” - Ảnh: Trần Minh Quế

ThS. HUỲNH THỊ NAM HẢI (Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật (VNU –HCM)