Quy định về kết luận giám định tư pháp và thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự

Kết luận giám định là một trong những cơ sở rất quan trọng để khởi tố, điều tra truy tố và xét xử tại Tòa án nhân dân theo pháp luật hình sự, BLTTHS và Luật giám định tư pháp hiện nay có những bất cập. Thực tiễn công tác khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử tại Tòa án các cấp cho thấy còn có nhiều quan điểm khác nhau, tôi xin nêu một số quan điểm của mình về vấn đề này qua thực tiễn kết luận giám định tư pháp của các cơ quan thực hiện nhiệm vụ giám định thông qua xét xử các bản án tại Tòa án nhân dân.

1. Quy định của pháp luật.

Giám định tư pháp nó đánh giá trình độ phát triển pháp luật, mức độ dân chủ của một Quốc gia. Trước đây hoạt động giám định được thực hiện nhằm cung cấp các chứng cứ để phục vụ cho việc giải quyết các vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hiện nay, thì hoạt động giám định còn để phục vụ công tác quản lý Nhà nước, thanh tra, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ, giao dịch dân sự của tổ chức, cá nhân.

Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này. (Điều 2 Luật giám định tư pháp).

Khi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được phân công nhiệm vụ trong khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự, nếu đương sự hoặc người đại diện của họ đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thì trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, ra quyết định trưng cầu giám định. Trường hợp không chấp nhận đề nghị thì thông báo cho người đã đề nghị giám định biết bằng văn bản và nêu rõ lý do. Hết thời hạn này hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì người đề nghị giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định. Theo quy định tại Điều 206 BLTTHS năm 2015 đối với các vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng bắt buôc phải trưng cầu giám định, gồm: 

“ 1. Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án;

2. Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;

3. Nguyên nhân chết người;

4. Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động;

5. Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ;

6. Mức độ ô nhiễm môi trường.”

Có thể thấy, kết luận giám định có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thu thập, xác lập chứng cứ, củng cố chứng cứ, kiểm tra chứng cứ là cơ sở để các cơ quan, người tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Kết luận giám định sai có thể dẫn đến oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Do tính chất quan trọng như vậy BLTTHS năm 2015 và Luật giám định tư pháp năm 2012 sửa đổi, bổ sung năm 2020 đã quy định việc giám định lại, giám định bổ sung. Theo quy định Điều 210 BLTTHS thì giám định bổ sung được tiến hành trong trường hợp: “Nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ; Khi phát sinh vấn đề mới cần phải giám định liên quan đến tình tiết của vụ án đã có kết luận giám định trước đó.”

Tại Điều 211 BLTTHS thì: “Việc giám định lại được thực hiện khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác. Việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện”. Giám định lại có thể tiến hành lần thứ hai khi có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định. Việc giám định lần hai do người trưng cầu giám định quyết định và phải do Hội đồng giám định thực hiện. Hội đồng giám định phải có ít nhất 03 thành viên là Giám định viên, người có chuyên môn cao và có uy tín trong lĩnh vực cần giám định. Theo khoản 3 Điều 28 Luật giám định tư pháp thì Hội đồng giám định hoạt động theo cơ chế giám định tập thể, các cơ quan giám định tư pháp là độc lập nhau, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả giám định, không có quy định cơ quan giám định cấp cao hơn. Kết luận giám định tư pháp mang tính khoa học, là một trong những nguồn chứng cứ được thu thập theo thủ tục tố tụng, làm căn cứ cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xem xét, đánh giá và quyết định khi giải quyết vụ án. Do đó, BLTTHS và Luật giám định tư pháp không đặt ra yêu cầu xác định “Kết luận giám định cuối cùng” do không thể coi kết luận giám định của một cấp nào đó là tuyệt đối đúng. Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là cần xem xét, đánh giá kết luận giám định cùng với các nguồn chứng cứ khác. Trường hợp có mâu thuẫn về kết luận giám định, nếu thấy cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng quyết định trưng cầu giám định lại. Nhằm hạn chế việc giám định nhiều lần và có điểm dừng tại Điều 30 của Luật giám định tư pháp cũng quy định “ Nếu vụ việc đã được Hội đồng giám định lần hai thì không giám định lại nữa, trừ trường hợp đặc biệt do Chánh án TAND rối cao, Viện trưởng VKSND tối cao quyết định”. Đồng thời theo quy định tại Điều 212 BLTTHS năm 2015 thì “Kết luận giám định lại trong trường hợp do Hội đồng giám định thực hiện trong trường hợp đặc biệt được sử dụng để giải quyết vụ án”.

Đây là những quy định thể hiện tính nhân đạo của Nước ta được quy định trong Hiến pháp năm 2013 đối với người có dấu hiệu tội phạm, thể hiện sự khoan hồng, dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền con người.

2. Bất cập trong quy định

Mặc dù, BLTTHS năm 2015 sửa đổi năm 2017; Luật giám định tư pháp năm 2012 sửa đổi, bổ sung năm 2020 và các Văn bản, Thông tư hướng dẫn của đã quy định, hướng dẫn, áp dụng về giám định tư pháp. Tuy nhiên, thực tế hiện nay nhiều Tòa án nhân dân địa phương vẫn còn lúng túng trong các vụ án hình sự có nhiều kết luận giám định của các tổ chức giám định kết quả khác nhau. Qua nghiên cứu các Bản án, quyết định ở một số đơn vị, chúng tôi thấy: Ở mỗi cơ quan tố tụng tại các địa phương khác nhau có cách hiểu và giải quyết kết luận giám định là khác nhau, vẫn còn có nhiều quan điểm, ý kiến trái chiều nhau.

Trên đây là một trường hợp cụ thể: Đ.Q và Đ.V là anh em ruột. Hai bên có mâu thuẫn với nhau từ trước trong việc tranh chấp đất đai, tài sản của bố mẹ, nên thường xuyên cãi nhau. Đến ngày 14/02/2019, Q đe dọa sẽ đánh V, V thách thức lại Đ. Q nhặt gậy gỗ trong nhà bếp gậy gỗ cầm bằng tay phải đánh V từ phía sau theo hướng từ trên xuống trúng vào vùng lưng, bụng, tay và chân.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 60/2019/TgT ngày 14/03/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh G, kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của V là: 13%.

Không đồng ý với kết luận giám định nêu trên cả Q và V đều yêu cầu giám định lại, tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 23/TgT-TTPY ngày 15/12/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ (giám định lại), kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là: 09%.

Tại bản Cáo trạng số 13/CT-VKS của Viện kiểm sát nhân dân thị xã A, tỉnh G truy tố bị cáo Đ. Q về tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm a khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Với lý do tỷ lệ thương tật mà Đ. Q đã gây ra cho Đ. V là 13 % với tình tiết định khung “Dùng hung khí nguy hiểm”.

Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra, truy tố và xét xử bị cáo Đ. Q theo khoản 1 Điều 134 BLHS, nhưng VKS cùng cấp vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố theo như bản Cáo trạng số 13/CT-VKS. Tại Quyết định đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán đã dự kiến của sẽ xét xử bị cáo Đ. Q theo khoản 1 Điều 134 BLHS, tại phiên tòa bị hại Đ.V có “Đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án”.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 23/TgT-TTPY ngày 15/12/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ (giám định lại) kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với bị hại là: 9% là kết luận tại thời điểm giám định lại. Viện kiểm sát không chấp nhận kết luận giám định này mà sử dụng kết luận giám định lần đầu của Trung tâm giám định pháp y tỉnh G (13%) để giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội Cố ý gây thương tích theo khoản 2 Điều 134 BLHS.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Kết luận giám định của Trung tâm giám định pháp y tỉnh G có sai sót về tỉ lệ kết luận, không đúng với quy định của Thông tư số 20/2014/TT-BYT của Bộ Y tế nên đã chấp nhận yêu cầu giám định lại của bị cáo và bị hại. Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 23/TgT-TTPY ngày 15/12/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ (giám định lại) kết luận tỷ lệ thương tích của bị hại là 09% là phù hợp với quy định của Thông tư số 20/2014/TT-BYT, cần được sử dụng làm căn cứ để giải quyết  vụ án. Với tỉ lệ thương tích này, bị cáo chỉ bị xử lý theo  khoản 1 Điều 134 BLHS, nên khi bị hại có “Đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án và khởi tố bị can” thì vụ án phải được đình chỉ theo quy định tại Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quan điểm thứ ba: Do kết luận giám tư pháp định ở hai lần có kết quả khác nhau, giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do Hội đồng giám định thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật giám định tư pháp và kết luận giám định lại trong trường hợp do Hội đồng giám định thực hiện trong trường hợp đặc biệt được sử dụng để giải quyết vụ án (Điều 212 BLTTHS). Vì vậy, trong vụ án này HĐXX phải hoãn phiên tòa, tiến hành trưng cầu giám định tư pháp lần thứ hai do Hội đồng giám định thực hiện.

3. Cần có hướng dẫn thống nhất

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc mỗi Tòa án nhân dân ở mỗi cấp, mỗi Tỉnh có cách hiểu khác nhau về giám định tư pháp và kết luận giám định tư pháp của các cơ quan, tổ chức giám định tư pháp. Quan điểm của tác giả trong nội dung bài viết này là đồng ý với quan điểm thứ ba. Vì kết luận giám định tư pháp là một trong những nguồn chứng cứ rất quan trọng làm căn cứ cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xem xét, đánh giá và quyết định khi giải quyết vụ án, đảm bảo giải quyết vụ án khách quan, tránh oan sai và không bỏ lọt tội phạm. Đặt trường hợp như vụ án nêu trên nếu kết quả do Hội đồng giám định lần hai thực hiện mà tỷ lệ thương tật của người bị hại 09%, tại giai đoạn xét xử sơ thẩm: Người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa căn cứ vào Điều 45điểm a khoản 1 Điều 282 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án; Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án”. (Công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của TAND tối cao).

Thực tế hiện nay vấn đề ban hành các Quyết định trưng cầu giám định thì các cơ quan tiến hành tố tụng ban hành Quyết định có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nội dung, yêu cầu cần giám định và việc ấn định thời hạn thực hiện giám định của cơ quan giám định, cũng như việc thành lập Hội đồng giám định lần thứ hai. Theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật giám định tư pháp quy định: “Bộ trường, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý về lĩnh vực cần giám định quyết định thành lập Hội đồng để thực hiện giám định lại lần thứ hai,...” vẫn còn vướng mắc, BLTTHS, Luật giám định tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định cụ thể về thời gian để Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý về lĩnh vực cần giám định thành lập Hội đồng để thực hiện việc giám định, trong khi đó thời hạn giám định theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 208 BLTTHS là không quá 09 ngày đối với trường hợp giám định “Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe” được quy định tại khoản 4 Điều 206 BLTTHS.

Mặc khác, việc Tòa án yêu cầu thành lập Hội đồng giám định để giám định lần thứ hai, theo quy định tại khoản Điều 36 Luật giám định tư pháp thì: Kinh phí thanh toán chi phí giám định tư pháp mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm chi trả được bảo đảm từ ngân sách nhà nước theo dự toán hằng năm của cơ quan đó để thực hiện nhiệm vụ giám định tư pháp.”, sẽ gây khó khăn cho Tòa án khi yêu cầu Hội đồng giám định lần thứ hai. Bên cạnh đó, Luật chưa quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân, cơ quan tổ chức giám định khi thực hiện chậm trễ việc giám định để vụ án phải kéo dài; hiện nay có nhiều vụ án phải tạm đình chỉ chờ kết luận giám định để khởi tố, truy tố và xét xử. Do đó, cần quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi thực hiện việc giám định; từ chối, né tránh việc giám định, thời gian giám định và kết luận giám định; trong trường hợp có kết quả trong kết luận giám định là khác nhau trong cùng một vụ việc, kết luận giám định không đúng sự thật hoặc không khách quan, có sai lệch do lỗi chủ quan trong kết luận giám định…

Qua vụ án trên, theo tôi thì Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật giám định cũng cần sửa đổi bổ sung theo hướng“Trong trường hợp việc giám định được thực hiện nhiều lần do các tổ chức, cá nhân giám định thì kết luận giám định tư pháp sau cùng là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sử dụng làm cơ sở khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự trong trường hợp không có khiếu nại hoặc không yêu cầu giám định lần tiếp theo”. Như vậy, đảm bảo có lợi cho người phạm tội khi giải quyết vụ án, và tổ chức, cá nhân khi thực hiện nhiệm vụ giám định tư pháp có thể có sai sót, không đúng. Bởi vì, thực tế hiện nay rất nhiều vụ án kết quả giám định lần đầu và lần sau là có khác nhau, nhưng bị can, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng trong vụ án đều đồng ý với kết luận giám định lần sau và họ không khiếu nại, thắc mắc gì thì đương nhiên có hiệu lực pháp luật; Chúng ta không cần thiết phải thực hiện việc giám định nhiều lần, gây lãng phí, tốn kém kinh phí.

Với mong muốn để thực tiễn về giám định tư pháp, kết luận giám định tư pháp đảm bảo tính chính xác, khách quan để các cơ quan tiến hành tố và người tiến hành tố tụng làm căn cứ để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, rất mong các cơ quan tư pháp ở Trung ương sớm có hướng dẫn thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.  

 

HÀ VIẾT TOÀN (Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai)