Một số vấn đề về đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội thẩm nhân dân

Cơ chế nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án với vai trò đại diện của Hội thẩm nhân dân còn khá nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, tổng kết để hoàn thiện. Sửa đổi toàn diện các quy định về Hội thẩm là một vấn đề rất quan trọng hiện nay.

1.Nhân dân kiểm tra trực tiếp hoạt động xét xử

Trong một bài viết mới đây của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hoà Bình về đổi mới và hoàn thiện cơ chế nhân dân tham gia hoạt động xét xử tại Tòa án, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân có đoạn: “Nếu nguyên tắc “Tòa án nhân dân xét xử công khai” là cơ chế bảo đảm sự kiểm soát có tính chất tổng thể, từ bên ngoài của toàn xã hội đối với hoạt động xét xử của tòa án, thì nguyên tắc “xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có hội thẩm tham gia” chính là cơ chế bảo đảm cho nhân dân kiểm tra trực tiếp, cụ thể và từ bên trong của hoạt động này”.

Ngay từ năm 1961, trong cuốn Luật lệ về Tư pháp (tập 3) do Tòa án nhân dân (TAND) tối cao xuất bản, về ý nghĩa của chế định Hội thẩm nhân dân, sách này viết: Hội thẩm nhân dân là “Biểu hiện cụ thể việc nhân dân tham gia quản lý Nhà nước một cách rộng rãi bằng công tác xét xử; Biểu hiện sự kiểm soát của nhân dân đối với công tác xét xử của Tòa án, đồng thời tăng cường mối liên hệ giữa Tòa án với nhân dân”.

Trong những năm qua, sự đóng góp của đội ngũ Hội thẩm nhân dân (từ đây viết gọn là Hội thẩm) đã góp phần rất quan trọng vào hoạt động xét xử của các cấp TAND. Tuy nhiên, cơ chế nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án với vai trò đại diện của Hội thẩm còn khá nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, tổng kết để hoàn thiện.

Lịch sử ra đời và phát triển của chế định Hội thẩm ở nước ta có thể nói bắt đầu từ quy định của Hiến pháp năm 1946 với quy định “Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với Thẩm phán nếu là việc đại hình. (Điều thứ 65). Như vậy, Hiến pháp năm 1946 quy định phụ thẩm nhân dân chỉ tham gia các phiên tòa hình sự. Các bản Hiến pháp sau này đều tiếp tục quy định về chế định này nhưng đổi “phụ thẩm nhân dân” thành “Hội thẩm nhân dân”. Các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 tiếp tục quy định “Việc xét xử ở các Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia theo quy định của pháp luật”. Điểm thay đổi đáng kể là các bản Hiến pháp này quy định Hội thẩm không chỉ tham gia xét xử tại các phiên tòa hình sự như trước đây mà cả các loại hình khác. Tuy nhiên, các bản Hiến pháp không quy định cụ thể Hội thẩm tham gia xét xử ở những cấp xét xử nào (sơ thẩm, phúc thẩm…). Chính vì thế mà trong một thời gian rất dài, quy định “Việc xét xử ở các Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia” của Hiến pháp chưa được thực hiện một cách đầy đủ, theo đó Hội thẩm chỉ được tham gia xét xử ở cấp sơ thẩm mà không được tham gia ở các cấp xét xử khác. Điều này dẫn đến có ý kiến cho rằng quy định trong các văn bản pháp luật liên quan, nhất là pháp luật về tố tụng là không đúng với tinh thần Hiến pháp. Có lẽ vì thế nên Hiến pháp năm 2013 đã quy định cụ thể Hội thẩm chỉ tham gia xét xử sơ thẩm chứ không quy định chung như các bản Hiến pháp trước đó nữa: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.”[1].

Về chất lượng tham gia xét xử của Hội thẩm, nói một cách công bằng, so với những năm trước đây thì đã có những bước tiến vượt bậc; nhiều vụ án lớn, phức tạp các Hội thẩm đã tham gia một cách tự tin, có trách nhiệm, góp phần cùng các Thẩm phán giải quyết vụ án một cách có chất lượng. Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là có sự chênh lệch rất lớn về nghiệp vụ chuyên môn xét xử giữa Thẩm phán và Hội thẩm. Bên cạnh đó, yêu cầu hiểu biết về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ… của hầu hết Hội thẩm để bổ trợ cho Thẩm phán cũng rất hạn chế mà chưa được quan tâm đầy đủ trong quá trình lựa chọn giới thiệu, bầu Hội thẩm. Những yếu tố nêu trên có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của bản án.

2.Tồn tại, hạn chế

Nghiên cứu vấn đề này thời gian qua, tôi thấy có một số tồn tại, hạn chế.

Thứ nhất, Việc lựa chọn, giới thiệu, bầu cử Hội thẩm còn hình thức.

Mặc dù Luật Tổ chức TAND quy định Hội thẩm là do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam lựa chọn và giới thiệu (dựa trên đề xuất của Tòa án nhân dân cùng cấp về số lượng và cơ cấu thành phần) nhưng trên thực tế, ở nhiều địa phương Ủy ban MTTQ Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc lựa chọn, giới thiệu; còn phụ thuộc nhiều vào Tòa án, thậm chí cả về nhân sự cụ thể. Cũng có một số địa phương, Ủy ban MTTQ Việt Nam chủ động hoặc phối hợp chặt chẽ với Tòa án cùng cấp lựa chọn danh sách giới thiệu nhưng số này rất ít và chủ yếu là ở cấp tỉnh. Về phía Hội đồng nhân dân (HĐND), việc bầu Hội thẩm cũng rất hình thức, danh sách giới thiệu hầu như rất ít địa phương để số dư; số người được giới thiệu làm Hội thẩm cơ bản là bằng số Hội thẩm được bầu và hầu hết danh sách này được HĐND bầu một cách nhanh chóng. Như vậy dù muốn hay không thì chính Ủy ban MTTQ Việt Nam và HĐND đã không làm tròn trách nhiệm của mình đã được pháp luật quy định trong việc chọn để bầu những người đủ tiêu chuẩn xứng đáng là đại diện của nhân dân tham gia công tác xét xử.

Thứ hai, chất lượng Hội thẩm chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.

Quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân về tiêu chuẩn Hội thẩm không quá nhấn mạnh về chất lượng chuyên môn xét xử của Hội thẩm, chỉ cần có "kiến thức pháp luật" là đủ. Trong khi đó, với các quy định của pháp luật tố tụng hiện nay thì đòi hỏi Hội thẩm không chỉ là người có uy tín trong nhân dân, có ý chí đấu tranh kiên quyết mà còn phải có trình độ chuyên môn vững về nghiệp vụ xét xử vì khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán và bản án được quyết định theo đa số. Có thể đánh giá một cách chung nhất là hiện nay chất lượng của đội ngũ Hội thẩm các cấp chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra. Ngoại trừ một số ít Hội thẩm trước đây đã từng công tác trong các cơ quan tư pháp nay nghỉ hưu có sự hiểu biết khá sâu về pháp luật cũng như kỹ năng xét xử nhưng số này lại bị hạn chế về sức khoẻ vì đa phần đều cao tuổi. Các Hội thẩm kiêm nhiệm thường không có nhiều thời gian dành cho công tác xét xử, vả lại họ chủ yếu là các cán bộ thuộc khối đoàn thể không có điều kiện tiếp xúc thường xuyên với công tác pháp luật. Bên cạnh đó, như trên đã nêu, do sự phát triển về kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ… nên các vụ việc cả về hình sự, dân sự, kinh tế, thương mại… không còn đơn giản như trước nữa, đòi hỏi cả Thẩm phán và Hội thẩm phải nâng cao trình độ về các lĩnh vực liên quan để có thể giải quyết vụ án được đúng đắn. Thẩm phán thì về cơ bản không thể có thể có đủ người có chuyên môn sâu về các lĩnh vực mà cần trông chờ vào các Hội thẩm. Nếu Hội thẩm vẫn chỉ là các cán bộ hưu trí, cán bộ các đoàn thể như hiện nay thì rõ ràng đây là nhiệm vụ bất khả thi.

Thứ ba, về mối quan hệ Thẩm phán và Hội thẩm trong công tác xét xử.

Thực hiện Điều 91 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, ngày 13/6/2016, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ra nghị quyết ban hành “Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm[2]. Đây có thể coi như một bước đột phá trong tổ chức và hoạt động của Hội thẩm. Tuy nhiên, trong thực tế do nhiều lý do khác nhau nên Đoàn Hội thẩm chưa thật sự đóng vai trò cầu nối giữa Hội thẩm với Tòa án. Mối quan hệ với Tòa án của Hội thẩm chủ yếu chỉ khi cá nhân Hội thẩm được Tòa án mời tham gia xét xử. Với chất lượng về chuyên môn như hiện nay cùng với điều kiện công tác, cơ chế làm việc còn nhiều bất cập, chúng tôi cho rằng Hội thẩm chưa thể đủ điều kiện để có thể "ngang quyền với Thẩm phán" trong công tác xét xử được.

Việc áp dụng nguyên tắc "Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số" về ý nghĩa là để đảm bảo tính dân chủ trong xét xử, song nguyên tắc này chỉ có thể phát huy đầy đủ nếu trình độ của Hội thẩm thực sự đáp ứng được việc giải quyết đúng đắn vụ án và được Thẩm phán tôn trọng. Mặt khác Thẩm phán còn phải biết khai thác những thế mạnh của Hội thẩm, đó là sự hiểu biết sâu về tâm tư, nguyện vọng, đời sống của nhân dân, về các khía cạnh khác của đời sống, xã hội mà Thẩm phán không có điều kiện tìm hiểu để từ đó có những phán quyết phù hợp. Về phía Hội thẩm, tuy rằng luật không yêu cầu Hội thẩm phải có trình độ chuyên môn ngang bằng với Thẩm phán, nhưng cũng không vì thế mà Hội thẩm lại quá yếu về vấn đề này. Cái mà mỗi Hội thẩm không thể không trau dồi thường xuyên đó chính là sự hiểu biết về đời sống các tầng lớp nhân dân, mang được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân vào công tác xét xử. Thực tiễn cho thấy vẫn còn quá ít Hội thẩm thể hiện được điều này tại các phiên tòa nhất là các phiên tòa hình sự.

3.Kiến nghị

Để nâng cao chất lượng Hội thẩm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, xin có một số kiến nghị sau đây:

Thứ nhất, Nâng cao chất lượng lựa chọn, giới thiệu, bầu Hội thẩm để có đội ngũ Hội thẩm chất lượng đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử.

Chất lượng của Hội thẩm trên lý thuyết có vai trò quyết định chất lượng của bản án (chiếm đa số). Chính vì vậy một trong những quan tâm lớn hiện nay là phải làm sao để có được đội ngũ Hội thẩm có chuyên môn vững, có năng lực làm công tác xét xử, có sự hiểu biết sâu sắc đời sống, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ, biết phản ánh tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án.

Về phía cơ quan giới thiệu Hội thẩm (Ủy ban MTTQ Việt Nam, cơ quan chính trị trong quân đội), phải xác định đầy đủ trách nhiệm của mình được pháp luật quy định. Việc lựa chọn người để giới thiệu làm Hội thẩm phải đạt được một số tiêu chuẩn chủ yếu sau đây: (1) Là những người có sự hiểu biết pháp luật một cách thực sự (đã từng kinh qua công tác pháp luật; làm các công tác thường xuyên liên quan đến pháp luật; được đào tạo nhất định về pháp luật...); (2) Có chuyên môn sâu về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học công nghệ…; (3) Có uy tín trong nhân dân nơi cư trú, trong tập thể những người cùng làm việc; có mối liên hệ thường xuyên với nhân dân; (4) Có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần thẳng thắn trong đấu tranh bảo vệ lẽ phải, bảo vệ sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật…

Muốn vậy, trình tự, thủ tục lựa chọn giới thiệu người phải được xây dựng công phu; tiêu chuẩn Hội thẩm phải được phổ biến công khai, đầy đủ cho nhân dân được biết; số người được giới thiệu phải nhiều hơn số người được bầu.

Về phía cơ quan bầu Hội thẩm (HĐND): Cần khắc phục tính hình thức trong việc bầu Hội thẩm như thời gian qua. HĐND phải nắm được đầy đủ hồ sơ lý lịch của người được giới thiệu, ý kiến nhận xét của nhân dân đối với người được giới thiệu để việc bầu được chính xác. Cần phải coi Hội thẩm là một "kênh" quan trọng để giúp HĐND thực hiện công tác giám sát cơ quan xét xử để từ đó có sự lựa chọn nghiêm túc và trách nhiệm.

Thứ hai, đổi mới về chất mối quan hệ Thẩm phán - Hội thẩm trong công tác xét xử để Hội thẩm thực sự phát huy tác dụng trong xét xử, để bản án thực sự thể hiện trí tuệ tập thể.

Thực tế hiện nay, đối với mỗi vụ án, thông thường Hội thẩm có rất ít thời gian để nghiên cứu hồ sơ vụ án. Quá trình xét hỏi tại tòa, ý kiến của nhiều Hội thẩm nhiều khi chỉ là để phụ họa thêm cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.

Để khắc phục tồn tại nêu trên, về phía Tòa án phải có lịch mời Hội thẩm tham gia phiên tòa sớm để Hội thẩm có đủ thời gian nghiên cứu hồ sơ (không nên vì lý do kinh phí mà hạn chế thời gian nghiên cứu hồ sơ của Hội  thẩm). Trong quá trình xét hỏi, quá trình nghị án, Thẩm phán phải thực sự tôn trọng ý kiến của Hội thẩm. Về phía Hội thẩm cũng phải dành nhiều thời gian để nghiên cứu hồ sơ vụ án. Quá trình xét hỏi Hội thẩm phải độc lập trong việc đưa ra các câu hỏi, trong tranh luận để làm sáng tỏ về bản chất của vụ án. Những vụ án nếu Hội thẩm nắm bắt đầy đủ về bản chất thì cần kiên quyết giữ vững quan điểm của mình khi nghị án. Những vụ án mà Hội thẩm có đủ cơ sở cho rằng Thẩm phán “có vấn đề” thì nếu không đấu tranh được trong Hội đồng xét xử, Hội thẩm cần trực tiếp phản ánh với lãnh đạo Tòa án, lãnh đạo Uỷ ban MTTQ cùng cấp và cơ quan có thẩm quyền để có biện pháp giải quyết kịp thời. Làm được những vấn đề trên mới thực sự phát huy được vai trò của Hội thẩm trong xét xử.  

Thứ ba, sửa đổi toàn diện các quy định về Hội thẩm để Hội thẩm thực sự làm tốt vai trò thay mặt nhân dân tham gia xét xử và giám sát hoạt động xét xử của nhà nước.

Bài viết nêu trên của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình có nhiều đề xuất mang tính đột phá để nâng cao chất lượng của Hội thẩm. Tôi cơ bản đồng tình với các đề xuất đó, nhất là các quy định để nâng cao chất lượng Hội thẩm; quy định về “Hội thẩm đoàn”... Tuy nhiên, về trang phục của Hội thẩm tôi cho rằng vẫn nên là thường phục như hiện nay (do Tòa án nhân dân tối cao quy định), không nên là áo choàng như Thẩm phán để (1) phân biệt giữa Thẩm phán và Hội thẩm trong Hội đồng xét xử, nhất là khi vụ án được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng và (2) để khẳng định sự tham gia của nhân dân trong hoạt động xét xử.

 

TAND huyện Yên Dũng, Bắc Giang xét xử vụ án hình sự - Ảnh: Nguyễn Hoàng Hiển

 

 

[1] Điều 103 Hiến pháp năm 2013

[2] Nghị quyết số 1213/2016/ UBTVQH13 ngày 13/6/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII.

TS. NGUYỄN VĂN PHA (Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội)